top of page

Định giá thiên nhiên: Khi nào và làm thế nào để mang lại lợi ích?

  • Writer: Yen Nguyen
    Yen Nguyen
  • Apr 12
  • 4 min read

Updated: 6 days ago


Giang Sen

31-03-2025

To understand the value of these noble titles, Kingfisher organizes a consulting group to review them before widely announcing them to the Bird Village through mass media. Five bird species representatives are appointed consultants to analyze the titles’ profound meaning and full value.

Trích “Titles of Nobility”; Wild Wise Weird [1]



Trong việc ra quyết định về môi trường, việc đánh giá chính xác giá trị của các dịch vụ tự nhiên – như nước sạch, đa dạng sinh học và cảnh quan đẹp – là rất cần thiết. Tuy nhiên, nhiều giá trị trong số này được coi là phi thị trường, nghĩa là chúng không được giao dịch trên các thị trường truyền thống và do đó thiếu giá cả rõ ràng. Một nghiên cứu gần đây của Pannell và cộng sự [2] giới thiệu một khung khổ có hệ thống để đánh giá khi nào việc thực hiện một nghiên cứu định giá phi thị trường (non-market valuation - NMV) là đáng giá và phương pháp định giá nào có khả năng mang lại lợi ích ròng lớn nhất, tùy thuộc vào bối cảnh quyết định cụ thể.


Dựa trên lý thuyết Giá trị Thông tin (Value of Information - VOI) [3,4], các tác giả đã phát triển một mô hình định lượng liệu lợi ích của việc ra quyết định được cải thiện – nhờ thực hiện nghiên cứu NMV – có biện minh cho chi phí của nó hay không. Khuôn khổ này được áp dụng cho một trường hợp giả định liên quan đến một dự án cải thiện chất lượng nước được đề xuất tại Lake Balance. Nghiên cứu đã xem xét năm phương pháp NMV thường được sử dụng: hai phương pháp ưu tiên được nêu (stated preference - SP), hai phương pháp chuyển giao lợi ích (benefit transfer - BT) và một phương pháp định giá hưởng thụ (hedonic pricing), mỗi phương pháp được thực hiện ở các mức độ chặt chẽ về phương pháp luận khác nhau. Một điểm mới quan trọng của nghiên cứu là việc sử dụng sự tham vấn có cấu trúc của các chuyên gia để đánh giá độ chính xác dự kiến của từng phương pháp NMV trong điều kiện thực tế.


Kết quả là, giá trị của việc thực hiện một nghiên cứu NMV mang tính đặc thù cao và phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như quy mô dự án, chất lượng kiến thức hiện có, độ chính xác của các phương pháp NMV, loại giá trị được đo lường (ví dụ: giá trị sử dụng so với giá trị phi sử dụng) và chi phí áp dụng từng phương pháp. Đối với các dự án quy mô lớn hoặc những dự án có đặc điểm là sự không chắc chắn đáng kể trong hồ sơ lợi ích-chi phí của chúng, việc đầu tư vào một nghiên cứu SP chất lượng cao có thể tạo ra lợi ích ròng đáng kể. Ngược lại, đối với các sáng kiến nhỏ hơn hoặc ít rủi ro hơn, các phương pháp hiệu quả về chi phí hơn – chẳng hạn như các phương pháp BT bị hạn chế về thời gian và ngân sách – có thể mang lại giá trị lớn hơn. Đáng chú ý, trong khi định giá thụ hưởng hoạt động tốt khi các dự án chủ yếu mang lại giá trị sử dụng (ví dụ: lợi ích giải trí), thì tính hữu dụng của nó giảm đi trong các trường hợp mà giá trị phi sử dụng là quan trọng – chẳng hạn như giá trị tồn tại hoặc ý nghĩa văn hóa – vì phương pháp này không thể nắm bắt đầy đủ các thành phần đó.


Nghiên cứu cũng nhấn mạnh sự khác biệt đáng kể trong đánh giá của các chuyên gia về độ tin cậy của phương pháp NMV. Khi các chuyên gia nhận thấy một phương pháp chính xác hơn, VOI ước tính của nó tăng lên tương ứng và ngược lại. Một phân tích độ nhạy toàn diện trên hàng nghìn kịch bản cho thấy các nghiên cứu NMV tạo ra VOI ròng dương trong khoảng 17% trường hợp. Điều này làm nổi bật tầm quan trọng của việc áp dụng đánh giá chi tiết, theo từng trường hợp cụ thể thay vì dựa vào các giả định chung về lợi ích của các nghiên cứu định giá.


Cuối cùng, Pannell và cộng sự [2] ủng hộ một cách tiếp cận sáng suốt và dựa trên bằng chứng để kết hợp giá trị của tự nhiên vào quá trình hoạch định chính sách. Thông qua việc áp dụng mô hình VOI nghiêm ngặt, các nhà hoạch định chính sách có thể điều chỉnh tốt hơn những hiểu biết khoa học với phúc lợi xã hội, cho phép đưa ra các quyết định cân bằng một cách chu đáo giữa bảo tồn sinh thái và các cân nhắc kinh tế. Điều này phản ánh sự hiểu biết ngày càng phát triển về mối liên hệ giữa tự nhiên và con người – thừa nhận rằng phúc lợi của con người có mối liên hệ sâu sắc với sức khỏe sinh thái và các hoạt động định giá mạnh mẽ có thể đóng vai trò là cầu nối quan trọng giữa tính toàn vẹn môi trường và chính sách công hiệu quả [5].


Tài liệu tham khảo

[1] Vuong QH. (2024). Wild Wise Weird. https://www.amazon.com/dp/B0BG2NNHY6/ 

[2] Pannell DJ, et al. (2025). The value of a value: The benefits of improved decision making informed by non-market valuation. Journal of Environmental Economics and Management, 131, 103148. https://doi.org/10.1016/j.jeem.2025.103148 

[3] Feltham GA. (1968). The value of information. The Accounting Review, 43(4), 684-696. https://www.jstor.org/stable/243630 

[4] Conrad JM. (1980). Quasi-option value and the expected value of information. The Quarterly Journal of Economics, 94(4), 813-820. https://doi.org/10.2307/1885672 

[5] Nguyen MH. (2024). How can satirical fables offer us a vision for sustainability? Visions for Sustainability. https://ojs.unito.it/index.php/visions/article/view/11267



Comments


bottom of page